Tôi cũng như những sinh viên khác, cũng đang học tập ở Sài thành - một nơi đất khách quê người.
Ngày nhận được tin đậu đại học, tôi vẫn còn nhớ hôm đó trời mưa như trút nước, nhỏ bạn lại nhắn báo tin tôi đậu đại học vào giữa đêm khuya. Khi đó tôi ngồi bật dậy, chạy đến chỗ nội nằm: “Nội ơi con đậu đại học rồi”, nội chẳng nói gì rồi ngủ thiếp đi. Tôi quên mất rằng nội đã ngã bệnh mấy năm nay, bất giác lúc đó tôi lại quên lãng đi mất, tôi kéo chiếc mền phủ ngang vai nội và lặng lẽ vào lại phòng.
Ngày lên xe vào Sài Gòn, tôi ngồi bên nội hàng giờ đồng hồ, chưa bao giờ tôi ngồi nhìn nội lâu đến thế, nội chỉ im lặng thôi. Gần đến giờ đi, tôi cầm tay nội vừa nói vừa khóc như một đứa trẻ “Con đi nha nội”, thế rồi lặng lẽ kéo vali đi. Vào đến Sài Gòn, tôi tập làm quen mọi thứ trong hai tuần. Chiều hôm đó, ba gọi, chưa bao giờ tôi nghe giọng ba lại yếu ớt đến thế: “Ông nội mất rồi con ơi”. Gai ốc nổi lên từng đợt, tôi lặng người đi một lúc, cho đến khi giọng ba vọng trong điện thoại: “Ngân ơi, Ngân… sao thế con, sắp xếp đặt vé về nghe con”.
Kể từ lúc đó, tôi như người vô hồn, tay xếp đồ, nhưng trong đầu chỉ toàn nghĩ đến nội, nghĩ đến tuổi thơ của tôi… Có lẽ ai đó sẽ thắc mắc rằng tại sao nội lại quan trọng với tôi như vậy, có khi hơn cả ba mẹ tôi nữa, đơn giản vì với tôi, quê hương và cả tuổi thơ tôi đều là hình bóng của nội. Ba mẹ đi làm xa khi tôi vừa chào đời được vài tháng và người gần gũi nhất với tôi vẫn là nội. Ngày ấy, trong góc bếp lúc nào cũng có để sẵn que tre dài tầm một cánh tay, lý do đơn giản vì hồi đó tôi nghịch thuộc dạng số một trong xóm, cứ học xong là đi chơi tới chiều xẩm mới về. Có hôm nội tôi phải kêu tôi về tắm rửa, ăn cơm. Và trước khi tôi bước vô nhà là bị một trận đòn phải gọi là “tét đít”.
Nhà tôi cũng trồng lúa, đến mùa gặt, tôi thường hay chạy theo nội ra đồng phụ. Nói là phụ thế thôi, chứ hồi đó tôi còn nhỏ, chỉ biết đi theo gom rạ với mấy việc lặt vặt. Mùa gặt đến cũng là lúc bọn trong xóm kéo nhau đi thả diều. Thực ra tôi chẳng nhớ là hồi đó đã có diều vải in màu như bây giờ chưa nữa, bởi toàn làm thủ công. Biết tôi thích thả diều, nội chuốt tre, rồi cũng làm cho tôi một con, vui phải biết.
Ở quê tôi, mỗi đợt đến Quốc tế thiếu nhi là con nít được phát quà, háo hức ghê lắm, tuy đơn giản chỉ là vài cái kẹo, gói trong bọc một cách vụng về, nhưng mà không năm nào tôi bỏ lỡ. Lúc tôi còn nhỏ xíu thì toàn được nội cõng trên lưng, xếp hàng chờ lấy kẹo. Lớn lên, nghe tiếng kẻng là tôi lại hăm hở chạy đi ngay. Vui nhất vẫn là những ngày nước lũ, nhà tôi cũng không thuộc dạng thấp lắm nên nước có lớn thì cũng vô sân là cùng. Lâu lâu tôi lại được nội cõng đi dạo dạo, nhìn nước xung quanh hoặc sang nhà mấy ông hàng xóm tán dóc, vì lụt nên có ai đi làm đâu.
Vì quen dần với cuộc sống tự lập nên từ nhỏ tôi đã biết tự giặt đồ. Hồi đó làm gì có nước máy, chỉ có xách nước giếng thôi, thế nên ai nhìn cũng thấy tay tôi thô ráp, to như con trai, dang nắng đi chơi... ai cũng chọc tôi là người châu Phi. Bữa ăn của nội và tôi rất đạm bạc. Nhiều hôm hết tiền, nội và tôi ăn cơm với chuối cắt lát chấm với muối mà cũng thấy ngon lạ. Tuy giờ nội đã không còn ở bên tôi, nhưng khi nhắc đến ông là mọi hình ảnh về tuổi thơ và quê hương lại hiện về trong tôi.
Chưa bao giờ tôi nghĩ nội lại xa tôi nhanh đến thế, chưa bao giờ nghĩ đến ngày tôi vào Sài Gòn học đại học, đó lại là ngày cuối cùng tôi gặp nội.
Với tôi, quê hương đơn giản là mang hương vị ấm áp của tình ông cháu.
Lê Thị Tài Ngân