From: Son Le
To: webmaster@vnexpress.net
Sent: Friday, February 07, 2003 7:49 AM
Subject: Co che khuyen khich phat trien doi ngu khoa hoc o Viet Nam
Thưa quý toà soạn,
Hưởng ứng ý kiến "Giải pháp giữ chất xám cho Việt Nam" của anh Trần Tiến Hà trong "Bạn đọc viết", tôi muốn trao đổi một số suy nghĩ như sau.
Trí thức là động lực phát triển kinh tế xã hội. Đó là một chân lý hiển nhiên, không cần phải bàn cãi. Vấn đề đặt ra đối với một nước "đang phát triển" như Việt Nam là làm sao phát triển trí thức với tốc độ nhanh để có thể đuổi kịp các nước tiên tiến.
Tôi đồng ý với các đánh giá mà anh Hà đã nêu ra và mong rằng những người có trách nhiệm nên bỏ chút thời gian để suy nghĩ về các ý kiến đó. Để phát triển nguồn nhân lực con người, một xã hội cần phải tạo ra các hình thức khuyến khích việc học tập nghiên cứu. Ví dụ trong thời kỳ bao cấp, các công ty nhà nước tuyển người không dựa trên kiến thức và khả năng cá nhân, do vậy không tạo ra động lực để thúc đẩy sinh viên cố gắng học hỏi. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi tham gia vào thị trường lao động, một người cần có một kiến thức chuyên môn nhất định và các khả năng khác như ngoại ngữ và máy tính. Người đó phải cạnh tranh với nhiều người khác để có được việc làm tốt, và vũ khí trong các cuộc cạnh tranh ấy chính là trí thức. Do cơ chế cạnh tranh trên thị trường lao động như vậy, sinh viên ý thức được vai trò quan trọng của việc học hành đối với tương lai bản thân họ và như vậy tự họ sẽ cố gắng học tập tốt.
Ở đây, tôi không bàn về thị trường lao động nói chung và việc làm cho sinh viên như ví dụ trên, mà tạo ra các hình thức khuyến khích và cạnh tranh. Tôi muốn bàn về việc phát triển đội ngũ trí thức ở trình độ cao, đặc biệt là các giảng viên của các trường đại học. Một câu hỏi đặt ra là Việt Nam có những cơ chế nào để khuyến khích và thúc đẩy các nhà trí thức học tập và nghiên cứu? Tiền lương và sự thăng tiến của các giảng viên trong các trường đại học chủ yếu dựa vào số năm công tác và các hoạt động mang tính "chính trị" khác. Như vậy học có động lực gì để học tập và tiến hành các nghiên cứu khoa học?
Là một nghiên cứu sinh sắp ra trường ở Mỹ, tôi phải tham gia vào cơ chế cạnh tranh trong thị trường lao động "giảng viên" ở đây. Muốn xin được việc ở các trường đại học, tôi phải có các bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Do vậy, cho dù việc nghiên cứu không có gì hứng thú, tôi cũng phải cố gắng hết sức mà làm để có thể xin được việc. Nếu tôi xin được việc ở một trường đại học nào đó rồi, tôi vẫn phải tiếp tục làm nghiên cứu, vì nếu không có một số bài được đăng ở các tạp chí có uy tín nhất định trong một khoảng thời gian nhất định thì tôi sẽ không nhận được hợp đồng lao động dài hạn (tenure) và không phong cấp (từ assistant professor lên associate professor va full professor). Trong tương lai nếu tôi được tenure và được phong đến full professor rồi, tôi vẫn tiếp tục phải làm nghiên cứu. Lý do là nếu tôi muốn chuyển sang một trường có uy tín hơn và có thu nhập cao hơn, thì tôi phải có nhiều bài nghiên cứu và được đăng trên tạp chí hàng đầu.
Tóm lại cơ chế ở đây là như vậy, không ai bắt tôi phải làm nghiên cứu nhưng tôi vẫn phải miệt mài làm vì cuộc sống của bản thân. Tôi thiết nghĩ nếu Việt Nam tạo được một cơ chế tương tự (hiện nay các nước ở Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Hong Kong... cũng đang cố gắng tạo ra cơ chế như vậy), thì chất xám sẽ phát triển mạnh hơn. Một vài người sẽ nói là tình hình ở Việt Nam khác với các nước tiên tiến nên không thể làm được như vậy. Tôi không hoàn toàn đồng ý với suy nghĩ như vậy. Việt Nam có thể không tạo ra được một có chế hoàn chỉnh ngay, nhưng có thể xây dựng dần dần. Vấn đề ở chỗ có nhận thức được không và có dám làm không.
Để tạo ra một cơ chế thúc đẩy việc học tập nghiên cứu ở trình độ cao, tôi có một số ý kiến sau:
1- Tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường đại học. Để tạo ra thị trường lao động cho các giảng viên và các nhà khoa học, cần phải có nhiều trường đại học và các trường này tham gia cạnh tranh để có được các giảng viên hàng đầu. Để đạt được điều đó, Việt Nam nên cho phép mở thêm nhiều trường đại học tư nhân và đại học quốc lập nên mở rộng các ngành đào tạo.
2- Xã hội hoá việc đánh giá chất lượng các trường đại học. Việt Nam nên xây dựng một cơ chế đánh giá các trường đại học một cách chính xác và công bằng (giống như AABCS của Mỹ). Trong đó chất lượng giảng vêin là một tiêu chí quan trọng nhất. Công bố định kỳ việc đánh các trường đại học trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3- Các trường tự quyết định mức lương giảng viên. Họ có thể trả lương cao cho các giáo sư hàng đầu để thu hút họ về trường mình.
4- Đánh giá các nhà khoa học/giảng viên bằng công trình nghiên cứu được đăng tải. Việt Nam nên xây dựng các tạp chí chuyên ngành theo các mức độ khác nhau. Tạp chí cấp 1 là tạp chí rất khó được đăng, sau đó mức độ khó sẽ giảm dần đến cấp 2 và 3. Các tạp chí này cần phải có một hội đồng phê duyệt bao gồm các giáo sư hàng đầu trong ngành. Hội đồng phê duyệt phải đánh giá một cách khách quan các bài nghiên cứu để quyết định đăng và không đăng. Các bài nghiên cứu được đăng ở các tạp chí có uy tín ở nước ngoài sẽ được đánh giá cao. Số lượng các bài được đăng của một nhà khoa học/giảng viên sẽ là tiêu chí để đánh giá họ.
Đó là một vài suy nghĩ của tôi về cơ chế khuyến khích phát triển đội ngũ khoa học ở Việt Nam mà tôi mong muốn được trao đổi với quý báo và những người quan tâm. Xin chúc quý báo một năm mới thành công.
Le Anh Son - Louisiana Tech University