From:
To: luatcanhtranh@vnexpress.net
Sent: Monday, June 23, 2003 3:58 PM
Subject: Luat canh tranh thieu quy pham xung dot phap luat (tiep theo)
I - Xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể xảy ra trước toà án Việt Nam
Tôi rất mừng là bạn Huyên ủng hộ việc chọn pháp luật của nước mà thị trường bị ảnh hưởng để điều chỉnh tranh chấp liên quan đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, tôi muốn trao đổi thêm về hai điểm mà bạn trình bày trong bài viết.
1. Việc đưa giải pháp mà tôi kiến nghị thành quy phạm pháp luật
Trong thực tế pháp lý Việt Nam cũng như các nước khác, một giải pháp có thể được pháp luật hoá bởi Quốc hội (nghị viện), Chính phủ hay bởi toà án. Trong bài viết, dường như bạn Huyên muốn sử dụng án lệ: “Luật thành văn dù được xây dựng kín kẽ đến đâu cũng không thể dự phòng hết được các trường hợp, cho nên việc chính thức thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với luật cạnh tranh vốn là một lĩnh vực hết sức phức tạp, năng động. Tới đây các phán quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh cũng nên coi là một loại "án lệ" như ở nhiều nước đã thừa nhận”.
Tôi hoàn toàn ủng hộ việc sử dụng án lệ trong thực tế như một nguồn của pháp luật khi văn bản pháp luật có khiếm khuyết nếu các án lệ đó là hợp tình và hợp lý. Song chúng ta chỉ nên sử dụng biện pháp này như một công cụ cuối cùng, tức là không còn giải pháp nào khác vì hai lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối với những người làm nghề luật, nhận thức về một quy phạm thiết lập bởi toà án (thông qua thông tư hướng dẫn hay án lệ) hay bằng văn bản của Quốc hội, Chính phủ không có nhiều khác nhau. Nhưng đối với những người không làm nghề luật, nhận thức về quy phạm thiết lập trong văn bản của Quốc hội, Chính phủ sẽ nhanh và đơn giản hơn nhiều so với một quy phạm thiết lập bằng toà án vì, để hiểu quy phạm thiết lập bằng toà án, người quan tâm phải đi tìm thông tư hướng dẫn và nếu do án lệ thì phải đi tìm án lệ để hiểu. Pháp luật về cạnh tranh được xây dựng để áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, tức là không phải để áp dụng đối với những người làm luật. Vậy để đưa pháp luật cạnh tranh vào tầm nhận thức của doanh nghiệp, chúng ta nên cụ thể hoá Luật Cạnh tranh và hạn chế sử dụng án lệ.
VnExpress đang tập hợp ý kiến của doanh nghiệp về dự án Luật Cạnh tranh. Bạn đọc nhấn vào đây để gửi thư, hoặc tới địa chỉ luatcanhtranh@vnexpress.net |
Thứ hai, giá trị pháp lý của những quy phạm thiết lập bằng toà án là vấn đề đang còn tranh cãi ở Việt Nam. Một số người cho rằng nên coi đây là quy phạm pháp luật như nhưng quy phạm pháp luật khác, nhưng lại có người cho rằng đây không phải là quy phạm pháp luật và không có giá trị pháp lý (Xem: Đỗ Văn Đại, Tư pháp quốc tế và vấn đề xây dựng quy phạm pháp luật bởi toà án ở Pháp và Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, 7(14)/2002, tr. 45). Vậy trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, chúng ta nên tránh sử dụng án lệ nếu có thể.
Nói tóm lại, chúng ta chỉ nên sử dụng án lệ khi không còn giải pháp nào khác. Vì chúng ta đang ở giai đoạn xây dựng văn bản về cạnh tranh do Quốc hội thông qua và vấn đề xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh đã được dự doán là có thể xảy ra ở Việt Nam. Theo tôi, chúng ta nên đưa vào dự thảo giải pháp chọn pháp luật của nước mà thị trường bị ảnh hưởng để điều chỉnh tranh chấp liên quan đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2. Khó khăn trong áp dụng giải pháp mà tôi kiến nghị
Bạn Huyên ủng hộ giải pháp mà tôi kiến nghị nhưng cho rằng áp dụng có thể gặp khó khăn: “Trên thực tế, việc xác định đâu là nước mà thị trường bị ảnh hưởng nhiều khi cũng không dễ dàng, trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay nhiều khi thị trường không phải chỉ của một, mà của nhiều quốc gia cùng bị ảnh hưởng”.
Ngay cả khi thị trường của hai hay nhiều nước bị ảnh hưởng như bạn Huyên vừa nêu, giải pháp mà tôi kiến nghị vẫn có thể được sử dụng. Phát triển ví dụ tranh chấp giữa doanh nghiệp A Việt Nam và doanh nghiệp B Trung Quốc, chúng ta có thể gặp trường hợp hai doanh nghiệp này, bên cạnh thị trường Lào, cùng cạnh tranh trên thị trường Thái Lan. Hai thị trường có thể bị ảnh hưởng, thị trường Lào và thị trường Thái Lan. Ở đây, giải pháp mà tôi kiến nghị vẫn có thể được áp dụng: chúng ta áp dụng pháp luật Lào đối với những hành vi cạnh tranh và thiệt hại trên thị trường Lào đồng thời áp dụng pháp luật Thái Lan đối với những hành vi cạnh tranh và thiệt hại trên thị trường Thái Lan. Có thể hành vi cạnh tranh của bên A không bị coi là không lành mạnh theo pháp luật Thái Lan và do vậy không có bồi thường thiệt hại nhưng bị coi là không lành mạnh theo pháp luật Lào và do vậy có thể có bồi thường thiệt hại. Sự khác nhau này không làm ảnh hưởng đến giải pháp chọn pháp luật của nước mà thị trường bị ảnh hưởng để điều chỉnh tranh chấp liên quan đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Vậy ngay cả khi hai hay nhiều thị trường bị ảnh hưởng, chúng ta vẫn có thể sử dụng giải pháp mà tôi kiến nghị.
II - Xung đột pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể xảy ra trước toà án Việt Nam
Theo bạn Huyên, chúng ta không chỉ bổ sung vào dự thảo Luật Cạnh tranh quy phạm xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh mà cả về thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng thống lĩnh vì: “Các hành vi vi phạm luật cạnh tranh rất đa dạng (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh...) chứ không chỉ bó hẹp trong vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra”. Xung đột pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh... có thể xảy ra trước toà án Việt Nam trong hai trường hợp: thứ nhất, các hành vi này gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam; thứ hai các hành vi này không ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam. Chúng ta lần lượt nghiên cứu xem có cần bổ sung vào dự thảo Luật cạnh tranh quy phạm xung đột pháp luật đối với các hành vi cạnh tranh này hay không.
1. Đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam có thể xảy ra trước toà án Việt Nam
Trước toà án Việt Nam, thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh có yếu tố nước ngoài có thể gây ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam. Ví dụ, doanh nghiệp A Hàn Quốc và doanh nghiệp B Nhật Bản thông đồng với nhau để phân chia thị trường và giá cả ở Việt Nam; hai bên thông đồng với nhau bằng một giao dịch bàn bạc và ký kết ở Hàn Quốc (doanh nghiệp B có chi nhánh ở Hàn Quốc). Đây là một thoả thuận hạn chế cạnh tranh gây ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam. Ở đây, chúng ta không cẩn bổ sung quy phạm giải quyết xung đột pháp luật vì Điều 1 của dự thảo đã đề cập đến: “Luật này điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong quá trình kinh doanh và các hành vi khác có ảnh hưởng đến cạnh tranh trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vậy, đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh... gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam theo Điều 1 của dự thảo và do đó không cần bổ sung.
2. Đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh không gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam có thể xảy ra trước toà án Việt Nam
Xung đột pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh không gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam mà đến thị trường nước ngoài có thể xảy ra trước toà án Việt Nam. Ví dụ, doanh nghiệp C Việt Nam và doanh nghiệp D Trung Quốc thương lượng và ký kết ở Việt Nam một giao dịch để định giá trên thị trường Pháp. Đây là một thoả thuận hạn chế cạnh tranh được thiết lập ở Việt Nam không làm ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam nhưng ảnh hưởng đến thị trường Pháp, và xung đột pháp luật có thể xảy ra trước toà án Việt Nam. Ví dụ, bên C Việt Nam muốn huỷ giao dịch trên và yêu cầu toà án Việt Nam can thiệp và cho rằng giao dịch này bị cấm vì đây là một thoả thuận hạn chế cạnh tranh: pháp luật Việt Nam hay pháp luật Pháp sẽ được áp dụng để điều chỉnh tranh chấp?
Nếu chúng ta quyết định thiết lập quy phạm xung đột pháp luật đối với loại tranh chấp này, chúng ta có hai lựa chọn: hoặc chúng ta sẽ chọn pháp luật Việt Nam về cạnh tranh hoặc chúng ta sẽ chọn pháp luật nước ngoài về cạnh tranh để điều chỉnh tranh chấp. Vì hành vi hạn chế cạnh tranh trên không ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam nên chúng ta không nên chọn pháp luật Việt Nam để điều chỉnh tranh chấp: pháp luật cạnh tranh Việt Nam Nam được xây dựng theo mầu sắc Việt Nam chỉ phù hợp với thị trường Việt Nam và chỉ để điều chỉnh cạnh tranh ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam. Vậy chúng ta chỉ có thể chọn pháp luật nước ngoài và đối với ví dụ nêu trên chúng ta sẽ chọn pháp luật Pháp về cạnh tranh. Nhưng liệu toà án Việt Nam có đủ điều kiện về kinh tế, vật chất để áp dụng pháp luật nước ngoài về cạnh tranh để điều chỉnh tranh chấp liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh...không?
Không phải bất kỳ hành vi hạn chế cạnh tranh nào cũng bị cấm. Thông thường các nước chỉ cấm các hành vi hạn chế cạnh tranh khi chúng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Đây là một điểm khác so với việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh: đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật cạnh tranh các nước dường như không yêu cầu điều kiện ảnh hưởng cạnh tranh một cách đáng kể. Điều 81 và 82 (tức điều 85 và 86 cũ) Hiệp định Roma cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và không phân biệt các hành vi này có ảnh hưởng một cách đáng kể hay không đến cạnh tranh trên thị trường châu Âu. Nhưng theo Uỷ ban châu Âu và Toà án châu Âu, các hành vi trên chỉ bị cấm khi chúng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Tương tự, ở Pháp, Nghị định năm 1986 về cạnh tranh (nay đã được luật hoá thành điều L. 410-1 và tiếp theo Bộ luật Thương mại Pháp) cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và không phân biệt các hành vi này có ảnh hưởng đáng kể hay không đến cạnh tranh. Nhưng theo thực tế pháp lý Pháp, các hành vi này chỉ bị cấm khi chúng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
Trong ví dụ trên, chúng ta không thể xem xét ảnh hưởng của thoả thuật hạn chế cạnh tranh giữa bên C và bên D trên thị trường Việt Nam mà chỉ có thể xem xét ảnh hưởng của nó trên thị trường Pháp. Để biết được thoả thuận cạnh tranh trên có bị cấm hay không, toà án Việt Nam cần biết thoả thuận này có gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Pháp hay không. Điều đó có nghĩa là toà án Việt Nam phải biết thị trường Pháp liên quan, tầm quan trọng của các bên trên thị trường này. Đây là một công việc không đơn giản ngay cả đối với các cơ quan bảo bệ cạnh tranh Pháp. Liệu toà án Việt Nam có đủ điều kiện về kinh tế, vật chất để xác định thoả thuận cạnh tranh trên có gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Pháp không?
Với hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay, thiết nghĩ toà án Việt Nam không đủ khả năng về kinh tế, vật chất để làm được việc đó. Nếu chúng ta quyết định bổ sung quy phạm giải quyết xung đột pháp luật đối với những tranh chấp liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh không gây ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam mà đến thị trường nước ngoài, chúng ta buộc toà án Việt Nam phải giải quyết những tranh chấp vượt quá khả năng hiện có.
Vậy trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không nên bổ sung vào dự thảo quy phạm giải quyết xung đột pháp luật đối với những tranh chấp quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh này. Cũng cần nói thêm, dường như do bản chất phức tạp của tranh chấp và do điều kiện kinh tế, vật chất còn hạn hẹp mà toà án Việt Nam đã đi đến quyết định không thụ lý đơn đối với tranh chấp về hợp đồng kinh tế thực hiện ở nước ngoài. Theo phần III-4-c, Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 7/1/1995 của TAND Tối cao và VKSND Tối (Hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế): “Trong trường hợp hợp đồng kinh tế được ký kết tại Việt Nam hay ở nước ngoài, nhưng một phần hợp đồng kinh tế được thực hiện ở Việt Nam, một phần hợp đồng kinh tế được thực hiện ở nước ngoài, nếu có tranh chấp hợp đồng kinh tế, thì toà án chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp về việc thực hiện phần hợp đồng kinh tế tại Việt Nam”.
Nói tóm lại, đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam, chúng ta không cần bổ sung vào dự thảo quy phạm xung đột pháp luật vì Điều 1 của dự thảo đã đề cập đến. Đối đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh không gây ảnh ưởng đến thị trường Việt Nam mà đến thị trường nước ngoài, chúng ta không nên bổ sung vào dự thảo quy phạm xung đột pháp luật vì, nếu chúng ta quyết định bổ sung vào dự thảo, chúng ta buộc toà án Việt Nam phải giải quyết những tranh vượt quá khả năng hiện có.
Xin nêu thêm ở đây là tất cả các bản án trong thực tế pháp lý Pháp liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và những hành vi khác có yếu tố nước ngoài mà tôi thu nhập được đều giới hạn trả lời câu hỏi sau: Thị trường Pháp có bị ảnh hưởng hay không? Nếu có thì toà án Pháp có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và áp dụng pháp luật Pháp về cạnh tranh. Tôi chưa thấy một bản án nào của toà án tối cao Pháp thừa nhận toà án Pháp có thẩm quyền giải quyết bằng pháp luật cạnh tranh nước ngoài đối với những tranh chấp liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh chỉ gây ảnh hưởng đến thị trường nước ngoài. Đây cũng là thực tế mà tôi nhận thấy trong thực tế pháp lý về cạnh tranh trên thị trường cộng đồng châu Âu.
Đỗ Văn Đại,
do.van_dai@caramail.com