Vậy trong thị trường USD Việt Nam có 2 loại giá áp dụng cho giao dịch mua bán, nhưng chỉ có một mặt hàng, với cùng một chất lượng, kiểu dáng, qui cách... Chỉ khác nhau ở cách định giá giữa một kênh chính thức (NHNN) và kênh phi chính thức (thị trường tự do).
Rất nhiều doanh nghiệp (DN) đã lên tiếng than phiền với “cơ chế 2 tỷ giá” này. Để mua được USD trên thị trường tự do DN phải trả chi phí theo hóa đơn tính theo tỷ giá của kênh chính thức, cộng thêm khoản phí chênh lệch giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá NHNN, phí này ngoài hóa đơn.
Được mất của cơ chế 2 tỷ giá này là ở chỗ:
Nhà nước sẽ mất một khoản thu thuế do sự chênh lệch tiền mua bán ngoài hóa đơn này. DN mua USD bị thiệt do chỉ được xuất hóa đơn với tỷ giá thấp hơn thực tế phải trả. Cái thiệt lớn nhất là sự mất cân đối trong cung cấu ngọai tệ của nền kinh tế, vô tình cổ vũ cho thị trường USD tự do mặt sức tung hòanh. Trong cơ chế hai tỷ giá này ai dám chắc không phát sinh tình trạng ưu tiên, cửa quyền của một số quan chức trục lợi từ sự chênh lệch tỷ giá này. Sự khan hiếm USD vô tình được thổi phồng quá mức, mà trước hết là do sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá USD giữa hai thị trường.
Vô hình chung chúng ta đang cổ vũ cho cơn sốt USD giả tạo, trong một thế giới mà USD hầu như đang tràn ngập. Cứ nhìn ra bên ngòai sẽ rõ, USD rớt giá liên tục so với các đồng tiền mạnh khác thì điều đó lại diễn ra theo chiều ngược lại ở Việt Nam. Vâng, VNĐ không phải là đồng tiền mạnh; vâng, chúng ta đang thực hiện chính sách tỷ giá có lợi cho xuất khẩu. Nhưng tất cả những điều ấy chưa giải thích thỏa đáng sự nóng dần lên từng ngày của giá USD.
Cái được trước mắt của việc tồn tại thực trạng hai tỷ giá này là ở chỗ, nó cho chúng ta thấy “cái nên” và “cái không nên” làm trong chính sách khuyến khích hay không khuyến khích của nhà nước ta. Những ngành nghề, doanh nghiệp được ưu tiên khuyến khích phát triển sẽ mua được USD với giá thị trường chính thức, những ngành, doanh nghiệp không được khuyến khích hay cần hạn chế thì phải mua USD với giá cao. Điều này tạo áp lực cho DN phải tìm nguồn hàng thay thế trong nước, hay hạn chế nhập khẩu đến mức thấp nhất. Áp lực lên nhập siêu sẽ được giảm bớt trên lý thuyết và dưới cách nhìn này.
Thực tế thì nhà nước vẫn thấy, vẫn quản lý tỷ giá USD thị trường tự do, nhưng USD nhìn chung vẫn là một món hàng, sự chênh lệch giá sẽ phát sinh thị trường chợ đen, điều không thể tránh khỏi trong cơ chế thị trường. DN đứng trên góc nhìn vi mô, còn ngừơi làm chính sách buộc phải đứng trên cách nhìn vĩ mô tổng thể. Họ có thể tính tới việc chấp nhận khiếm khuyết trong cơ chế tỷ giá này để đánh đổi, để đạt được cái lớn hơn là hạn chế nhập siêu và khuyến khích DN tăng cường nhập khẩu hàng trong nước phục vụ cho nhu cầu sản xuất.
Nếu nói nhà nước ta không quan tâm đến sự tồn tại hay những khó khăn của DN đến từ sự nóng dần lên từng ngày của USD là không đúng. Sự quan tâm đó đã thể hiện trong chính sách hỗ trợ lãi suất trong thời gian vừa qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Chỉ có điều những ngành nghề, những DN nào cần phải quan tâm, khuyến khích phát triển, những ngành nghề nào không cần. Không thể cào bằng, nếu cào bằng sự quan tâm ấy thì thay cho chính sách hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua có thể đã là chính sách hạ mức lãi suất cơ bản xuống dưới 7% để tất cả đều hưởng lợi.
Trong khi nguồn lực hạn chế, chúng ta buộc phải chọn bước đi thích hợp. USD sẽ dần hạ nhiệt khi nền kinh tế lại lại sự thăng bằng sau ảnh hưởng của suy thóai kinh tế thế giới.
Ngô Dũng PYV