Nhập siêu trong 5 năm 2001-2005 giữ ở mức 19,54 tỷ USD, chỉ chiếm 17,7% kim ngạch xuất khẩu. Kết quả này giúp nhiều người kỳ vọng vào giai đoạn 2006-2010, thậm chí lạc quan tin có thể cân bằng xuất nhập khẩu sau năm 2010.
Song diễn biến 4 năm (2006–2009) gây ít nhiều thất vọng, nhập siêu tăng lên tới 47,8 tỷ USD, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu. Bước vào năm 2010, mở hàng 4 tháng đầu năm, nhập siêu đã 4,65 tỷ, tỷ lệ 23%, trong khi cùng kỳ năm 2009 lại xuất siêu 209 triệu USD (thực ra cũng vô duyên vì trót cộng xuất khẩu vàng hóa ra mới có xuất siêu). Đấy là chưa kể phần nhập lậu không có trong số liệu trên. Triệu chứng này cho thấy việc kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu có nhiều bất cập.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu quặng thô, sản phẩm tươi, hàng gia công, thuộc phân kỳ giá thấp, còn nhập khẩu nhiều hàng hóa như xăng dầu, vải, sắt, thép, phân bón thuộc phân kỳ giá cao. Nên dù giá thị trường biến động theo chiều nào đều bất lợi. (1) Năm giá thế giới tăng, xuất khẩu được giá, song khi nhập khẩu phải trả với giá hàng hóa - cao hơn nhiều, tức là nhập siêu. (2) Khi thị trường trầm lắng, giá nhập khẩu rẻ nhưng khi xuất khẩu phải bán giá thấp, kết cục vẫn nhập siêu. Tình huống (1) đúng với năm 2008, còn tình huống (2) ứng luôn năm sau, khác nào như trò đuổi hình bắt bóng.
Còn xem từng mặt thì càng thấy sự gay cấn do không còn áp dụng biện pháp hành chính, áp đặt hạn ngạch, hàng rào thuế quan như trước, nhưng cũng bộc lộ nhiều điều ta tự làm khó cho mình.
1. Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tăng cường nhập khẩu thiết bị, máy móc, nguyên nhiên phụ liệu. Đây là nhóm chiếm tỷ trọng lớn, nếu muốn giảm nhập siêu ắt phải cắt, giảm nhập khẩu nhóm hàng này. Song như vậy chẳng những mâu thuẫn với đường hướng lớn, mà vào thời mở cửa, chỉ cần ta chần chừ các nhà cung cấp nước ngoài sẽ nhào vô, việc kiểm soát nhập khẩu càng lúng túng.
Tích lũy từ nội lực không đủ, nên phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Song việc “tiếp máu” vào cơ thể gầy yếu hứng ngay hậu quả là khối này gây thâm hụt thương mại lớn cho nền ngoại thương nước ta.
2. Hàng tiêu dùng tuy tỷ trọng nhỏ nhưng danh mục lại dài dằng dặc, khiến việc quản lý nhập khẩu, hạn chế nhập siêu, vốn đã khó nay càng phức tạp.
Là nước nông nghiệp nhưng Việt Nam lại nhập khẩu ồ ạt nông sản đến khó tin. Xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới nhưng hiện gạo của Thái Lan, Đài Loan chễm chệ nhiều điểm bán hàng. Đã mấy năm rồi, trùng vào thời vụ Tây Nam bộ đang thu hoạch lúa gạo từ Campuchia ào ạt đổ vào chính vựa lúa này. Các miệt vườn đang khốn đốn vì rau hoa quả nhập khẩu. Năm 2009, xuất khẩu rau quả được 431 triệu USD, lại nhập khẩu tới 280 triệu USD đồng, trong đó nhiều nhất là của Trung Quốc, Thái Lan. Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa từng trồng dưa lấy hạt nổi tiếng thỏa dụng nhu cầu cả nước, nhưng hiện 90% hạt dưa trên thị trường xuất xứ từ Trung Quốc.
Việt Nam là một nước kém phát triển, nhưng tiêu xài hàng xa xỉ đang thành mốt. Ô tô ngoại “khủng” xuất hiện mọi nẻo đường, cần thì đưa về bằng máy bay. Căn hộ triệu đô phải bộ nhà tắm, toilet, massage của Nhật; đồ gỗ, đồ nội thất của Singapores; gạch nát nền Tây Ban Nha… Hàng dệt may trên thị trường nội địa, dân ít tiền đổ xô vào hàng Trung Quốc, còn lớp nhiều tiền chọn hàng Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore.
Cây lúa từ xa xưa chỉ ưa phân chuồng, nay cũng “kênh kiệu” đồ ngoại. Nhập khẩu phân bón, thuốc trừ sâu hàng năm tiêu gần hết tiền xuất gạo.
3. Qua hàng trăm hiệp định thương mại đã ký, nhất là các hiệp định thương mại tự do, hiệp định nào cũng tạo quan hệ bình đẳng giữa các đối tác. “Dễ người dễ ta, khó người khó ta”, nhưng hàng của ta năng lực cạnh tranh kém, thường không tận dụng được cơ hội. Bên ngoài vốn sức cạnh tranh cao, lại được ta mở cửa thị trường cho các hãng phân phối 100% vốn nước ngoài từ 1/1/2009.
Điều này còn đúng cả với hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại tự do. Mở ra các khu này, xuất khẩu có tăng nhất là loại phẩm cấp bình dân. Song bất cập về nhập khẩu và nhập siêu, thì không bù lại được. Ở khu vực phía Bắc, chỉ cần nhìn dòng hàng tối ngày từ Lạng Sơn về mà sốt ruột. Khu vực phía Tây, cũng ùn ùn xe hàng từ khu thương mại tự do Lao Bảo theo đường số 9 chạy vào.
4 . Chủ trương đẩy mạnh sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, vừa hay lại hợp với sáng kiến “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Song với thị hiếu thời @, nếu có dùng hàng sản xuất trong nước thì cũng phải được chế tác bằng thiết bị hiện đại, phụ tùng xịn, vật tư chất liệu tốt…nhập khẩu . Thế nên muốn “đẩy mạnh sản xuất, phải “tăng cường” nhập khẩu để sản xuất, gia công.
5. Thực hiện các định ước quốc tế, không thể áp dụng các biện pháp thuế quan, hạn ngạch, mà thay bằng hàng rào kỹ thuật cùng mạng lưới lưới kiểm tra. Nhưng tiếc rằng những điều đó còn rất thưa - mỏng. Mặc dù ta đã ban hành Pháp lệnh Tự vệ và Pháp lệnh Chống trợ cấp và chống bán phá giá đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam, nhưng chưa được dụng võ.
6. Kiểm soát vĩ mô về nhập khẩu trước hết và chủ yếu dựa trên thống kê số liệu, song tiếc là nghèo nàn. Nhóm, mặt hàng nhập khẩu có tới hàng nghìn, song biểu thống kê đến năm 2008 mới có 34 mục, qua năm 2009 mới thành 44 mục chia thành 3 nhóm hàng: (1) Cần nhập khẩu, (2) nhập khẩu cần kiểm soát, (3) Hạn chế nhập khẩu. Trong nhóm (2) “nhập khẩu cần kiểm soát” gom các mặt hàng không rõ danh tính trong tiểu nhóm “các mặt hàng khác”. Năm 2008 tiểu nhóm này là 5,2 tỷ USD, chiếm 52,3% của cả nhóm. Các con số tương ứng của năm 2009 là 4,1 tỷ USD và 63%.
7. Nhiều khi cũng phải dùng nhập khẩu như một công cụ để giải cứu cơn “nóng - lạnh” của thị trường. Với 40 nhà máy đường ai cũng kỳ vọng không phải nhập khẩu mà sẽ dư đường để xuất khẩu. Song ngần ấy năm cứ diễn ra điệp khúc, khi giá thế giới tăng, nông dân tăng giá mía - nhà máy nâng giá thành - nhà buôn tâng giá bán, đến mức cơ quan quản lý phải cảnh báo nếu không chịu bình ổn giá trong nước, sẽ cho nhập khẩu đường tắp lự. Còn khi giá thế giới giảm , chặt mía - nhà máy ngơi - thiếu đường - doanh nghiệp găm hàng – giá nội địa lại căng, đành “giải cảm” bằng…. nhập khẩu.
8. Nhiều hội chợ triển lãm cũng để lọt lưới những khoản nhập siêu “ngoài ý muốn”. Đúng ra hàng nước ngoài mang vào triển lãm phải tái xuất, song với những bùa phép nó ở lại nước ta. Sứ Giang Tây, sau hội chợ, lập tức nó được kính chuyển cho các chủ hàng Việt Nam, bày bán nghênh ngang trên nhiều phố phương của các thị thành. Bia Tiệp ngon thế mang vào giới thiệu ai nỡ mang về… Đến hẹn lại lên, mỗi năm Thái Lan lại mở Triển lãm sản phẩm tại Hà Nội, hỗ trợ chỗ cho hàng của họ vốn đã có chỗ đứng tại thị trường Việt Nam. Phía ta chưa có động thái tương ứng.
9. Nhập siêu còn bám đuổi các tuor du lịch. Người nước ngoài vào Việt Nam thăm thú, muốn mua hàng lưu niệm quanh quẩn là hàng thêu, chiếc nón. Trái cây, quà bánh đặc sản tươi ngon nhưng không để được lâu. Sơn mài, khắc khảm cồng kềnh, khó mang. Vải vóc, tơ luạ dễ nhầm với hàng Trung Quốc… Điều đó lý giải vì sao khách vào Việt Nam tiêu ít, dù phương châm trong du lịch là phải lôi cuốn khách “vào sâu - ở lâu - tiêu hết”. Ngược lại nhìn dòng người Việt Nam du lịch nước ngoài về ai cũng tay sách nách mang. Từ tổ chức tuor, đến cách bán hàng, nước ngoài họ moi những cắc bạc đầu tiên khi ta mới nhập cảnh và tận thu những đồng xu cuối cùng trước khi ta xuất cảnh.
Rõ ràng việc kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu là khó.
Nguyễn Duy Nghĩa
Nguyên phó chánh văn phòng Bộ Thương mại
Bài viết cùng tác giả:
> 10 bất cập trong xuất khẩu
> Chưa thể kỳ vọng nhiều từ xuất khẩu quý một
> Suy ngẫm về quan hệ thương mại Việt - Trung