Cách đây không lâu, trên một số trang tin điện tử và cả báo in đã có loạt bài viết và đưa ra ra thông tin khảo sát về 1000 tấn vàng đang nằm ở trong dân. Số vàng ấy nếu thực có thì quả là điều đáng mừng, vì dân ta (nhiều người, nhiều nhà) đã có của ăn, của để.
Nhưng mấy ngày gần đây, lại rộ lên sự phỏng đoán về số vàng còn ở trong dân ước còn 400 tấn (khoảng 22 tỷ USD). Hai số liệu khảo sát lệch nhau quá xa và quả thật không biết nên buồn hay vui. (Xem thêm: Tôi không tin còn 400 tấn vàng 'chết' trong dân )
Tôi lại cũng nhớ đến cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, khi ấy dân ta còn nghèo lắm, và tác động của cuộc khủng hoảng ấy cũng không rõ nét lên nền kinh tế nước ta như hiện nay do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ năm 2008.
Tôi cũng nhớ tới một chương trình thời sự của ta hồi ấy đã quay cảnh người dân Thái Lan mang vàng đi ủng hộ chính phủ với mục đích cứu vãn nền kinh tế và ngăn chặn khủng hoảng.
Vậy tôi có một chút trao đổi như thế này:
Thứ nhất, chúng ta cần coi vàng là một công cụ tài chính như đúng giá trị bền vững của nó. Chẳng thế mà ở Mỹ, dự trữ vàng là một quyết sách quốc gia và quyết sách ấy còn gánh trọng trách vị thế của nước Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu. Các nước Đức, Pháp hiện đang là trụ cột của châu Âu trong bối cảnh nợ công đe dọa các chính thể trong thành phần của liên minh có chung đồng tiền Euro bằng chính lượng vàng dự trữ mà họ đang có...
Trong góc nhìn nhỏ hẹp hơn, nhưng phổ biến, đó là giá trị bảo đảm tài chính của vàng trong mỗi gia đình ở nhiều quốc gia. Cho dù còn tùy thuộc vào khái niệm giá trị (trị giá trao đổi) nhưng thông thường, đó là dự trữ sinh tồn trong khái niệm phòng vệ của người dân trước các mối lo về thảm họa, chiến tranh...
Như vậy, ở cấp độ quốc gia hay quốc tế và trong mỗi gia đình, vàng là giá trị kiềm chế, ngăn chặn và là lối thoát trước những sự biến có thể lường trước. Đồng thời đó là công cụ tài chính hiệu quả, bền vững và tin cậy trong các hoạt động thương mại. Các trao đổi tài chính quốc tế thông qua vàng hiện đang phổ cập, hay cũng giống như ở châu Phi, người dân dùng vàng để đổi lấy một khẩu súng.
Thứ hai, cần phải coi hành vi tích trữ vàng là một nét văn hóa đặc thù đáng tôn trọng.
Trong khi sự phát triển và tác dụng của tiền giấy, tiền kim loại đều có những hạn chế chung đó là thiếu bền vững trong cùng cấp độ thời gian và lệ thuộc vào thể chế chính trị, thì vàng không bị những tác động như vậy. Hay như ở một số quốc gia hiện nay, sự lệ thuộc toàn phần cả về chính trị và kinh tế vào một quốc gia khác cũng là do giá trị của đồng tiền nội tệ không còn là phương tiện tài chính tích trữ và tiêu dùng tin cậy.
Ở cấp độ văn hóa và trong văn hóa dân gian, vàng ở Ấn Độ hiện vẫn là thứ trang sức đa giá trị (của hồi môn, tích trữ, đẳng cấp giàu nghèo...), ở Trung Quốc xưa và nay, vàng là bản vị của sự tiết kiệm, lặng lẽ vươn lên để trở thành "lão gia", "đại gia" của người dân.
Còn như ở Việt Nam ta, vàng là nguồn dự trữ để một đời người đàn ông cần phải thực hiện 3 việc quan trọng (tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), và để thực hiện trách nhiệm của các bậc sinh thành trước con cái họ như: chút vốn cho con gái lấy chồng, chia của cho các con trước khi về với tổ tiên... và để chứng tỏ vị thế của mình trước cộng đồng. |
Vậy nên, vàng được coi là một phần của giá trị văn hóa và có thể nói đó là nét đặc trưng của văn hóa phương Đông. Với cách nghĩ ấy, qua VnExpress, tôi muốn trao đổi thêm một vài ý kiến:
1. Khi nói số liệu 400 tấn vàng hiện còn trong dân tôi không mấy tin tưởng về sự chính xác cho dù đó chỉ là con số tương đối.
Vàng trong dân rất lớn về số lượng, bởi nó còn được thể hiện trong văn hóa (các trang trí thờ tự, các đồ trang sức đa dạng về hình khối và biểu tượng cho phụ nữ và nam giới....) và vàng trong dân hầu hết không mang ý nghĩa trao đổi thường xuyên khi nó chưa thực sự cần đến.
Người Việt Nam chưa đủ giàu để tích trữ đến hàng nghìn cây vàng trong nhà (đại đa số là vậy). Nhưng có thể đủ cho con số nhiều tấn khi nói về những người giàu và khả năng tích trữ của họ hiện nay khi kinh tế nước ta có sự tăng trưởng mạnh ở những năm gần đây.
Tuy nhiên, việc xác định vàng như trong các báo đã đăng (về số lượng hiện có) được hiểu là giá trị nguồn lực dự trữ trong dân với các thông số khảo sát từ lượng trao đổi của các thương hiệu vàng trong nước cũng một phần mang ý nghĩa thực. Thế nhưng, không thể coi đó là giá trị tài chính động, bởi nó không tham gia hết vào trao đổi vật chất, hàng hóa mà nó phần lớn trong giá trị văn hóa tích trữ mà thôi.
2. Vàng trong một nền kinh tế mở và động rất có ý nghĩa, nhưng vì nó còn mang giá trị văn hóa như ở ta đây, nên yếu tố tâm lý con người là quyết định. Thực tế là, người dân đang lo lắng về những biến động tài chính đang diễn ra, nên phần đông đều coi vàng là giá trị tích trữ cuối cùng.
Những người chủ gia đình đang lo lắng và vì thế, thay vì đưa vàng ra đầu tư, họ lại tìm cách để bảo toàn nó. Hoặc như có tình trạng mua thêm cho dù đắt như: một ông chủ gia đình quyết định gửi 5 tỷ đồng vào ngân hàng, với số tiền lãi hàng tháng 12% tương đương với 60 triệu đồng/tháng, ngay sau khi rút lãi đã đến ngay cửa hàng vàng và mua hết số tiền ấy.
Khi được hỏi, với thái độ không vui nhưng cũng rất thẳng thắn, ông ta trả lời: Tôi sẽ dành ra 60 tháng để mua vàng, coi như để cầm cự và giữ vốn cho các cháu. Vậy chúng ta hãy thử xem, với 20.000 người có số tiền 5 tỷ đồng cùng làm như vậy trong 60 tháng. Và các cửa hàng vàng chỉ bán ra mà không mua vào với những khách hàng như vậy. Đó là sự bế tắc trong lưu thông tài chính ở một mức độ nào đó.
3. Chỉ người dân quyết định đồng vốn của họ, và chỉ khi nào dự trữ của họ về căn bản đã vững.Vậy có nên tác động vào việc đó không (để huy động)?.
Có và cần thiết, nhưng rất khó bởi đó đã là văn hóa. Và chúng ta chỉ làm được khi ứng xử một cách văn hóa, và xây dựng nền văn hóa tiêu dùng theo đúng nghĩa, khi cuộc sống người dân còn rất khó khăn. Nhà nước phải làm sao để dân mua được nhà, làm sao để chất lượng hàng hóa kích thích được tâm lý tiêu dùng... Cần có những hình thức sinh lợi chính đáng và tin cậy để người dân đưa vàng ra kinh doanh.
Với những gì đã trao đổi, tôi cho rằng, vàng rất quan trọng và luôn quan trọng với người dân, nhưng đó có phải nguồn lực quốc gia không thì là vấn đề lớn, bài toán khó cần có lời giải.
Để có thể coi đó là nguồn lực quốc gia, trước hết chúng ta nên coi đó đúng là nguồn lực văn hóa, nó phải được kích thích để hội nhập vào quá trình xây dựng đất nước. Không được tác động bằng những hành vi thô bạo, thiếu văn hóa, bởi làm thế chỉ khiến vàng mang ý nghĩa tích trữ chứ không còn là công cụ tài chính nữa.
Trần Thiết
Chia sẻ bài viết của bạn về kinh doanh, cất giữ vàng tại đây.